welcome to my site
Ứng dụng HOT: Xem hàng ngàn clip "CỰC NÓNG". |
| CLick để biết ngay nóng tới cỡ nào Lượt tải: 396.299 giá: 15K Mobi | Viettel | Vina |
Hiện tượng tâm linh và thế
giới ma thuật
HIỆN TƯỢNG TÂM LINH VÀ THẾ
GIỚI MA THUẬT QUA NHỮNG
GIẢI THÍCH KHOA HỌC
Từ khi loài người xuất hiện
trên quả đất, hiện tượng tâm
linh và lĩnh vực ma thuật đã
bắt đầu phát triển. Các nhà
khảo cổ, các nhà sử học và
nhân chủng học đã khám phá
ra nhiều bằng chứng về sự
phát minh và phát triển của
ma thuật thuở loài người còn
sống theo kiểu ăn lông ở lỗ.
Các dấu tích về các vật dụng
để thờ cúng, từ đá và xương
cốt hay các hình vẽ trên các
vách đá trong cách hoạt động
cho thấy, sinh hoạt thời hỗn
mang đó của loài người đã có
những buổi lễ tôn vinh thần
linh ma quỷ. Lúc bấy giờ cũng
phát sinh các pháp sư, thầy
phù thủy đầy uy lực và uy
quyền.
Một số nhà khảo cổ và nhân
chủng học cho giống người
Neantherdale là văn minh
nhất. Nhưng các khám phá sau
đó lại cho thấy giống người
Cromangnon có nhiều đặc
điểm tiến hóa cao về lĩnh vực
đời sống tâm linh, qua các
bằng chứng cổ xưa từ các
hình vẽ trên vách đá các buổi
lễ thờ cúng, và các hình ảnh về
ma thuật đầy màu sắc. Đặc
biệt là người chết được đem
chôn theo các nghi lễ đầy vẻ
huyền bí.
Lý luận của một nhà nghiên
cứu về nhân chủng học, dân
tộc học thường cho rằng khi
con người còn man dã chưa
tìm ra được lửa thì mỗi khi
màn đêm xuống, nỗi lo sợ đã
đổ ập lên người họ, rồi khi
sống trong các hang động và
tìm được lửa thì những hình
ảnh chập chờn ma quái lại
càng khiến họ sợ sệt hơn
thêm, qua những hình ảnh lạ
lùng. Và ma quỷ phát sinh
nhiều hơn thêm qua trí tưởng
tượng họ. Về thần linh thì sấm
sét, núi lửa, động đất là
những nguyên nhân làm họ
tin tưởng đến sức mạnh vô
hình nào đó, sức mạnh của các
thần linh.
Năng lượng tinh thần
Những nhà khoa học tiên
phong xâm nhập thế giới
huyền bí để nghiên cứu tìm
hiểu xem năng lượng tinh
thần là phần quan trọng trong
vấn đề nghiên cứu hiện
tượng siêu hình. Theo họ não
bộ người là một cái bình Ác-
quy siêu đẳng và huyền bí rất
nhiều. Bộ não người phát
sóng và thu sóng, phát điện
và thu điện trong tự nhiên vũ
trụ. Tuy nhiên sự vận hành,
thu phát, chuyển biến còn tùy
ở cơ thể người mang bộ não.
Dưới mắt nhà khoa học họ
không chỉ tập chú vào các vị
Lạt ma, các nhà tu hành nơi
các hang động thâm sâu hay
trong các đạo viên khuất sau
rặng tuyết sơn mà nghiên cứu
toàn thể bộ não người. Lý do
là những con người không trải
qua quá trình tu luyện nào cả
nhưng vẫn có được một năng
lượng tinh thần rất lớn, họ có
thể nhìn xuyên qua vách
tường, xuyên qua sắt thép,
xuyên qua khoảng cách rất xa.
Có người còn dùng năng
lượng tinh thần để làm cháy
đồ vật hay làm cho các hạt
nảy mầm, có người sử dụng
năng lượng tinh thần để chữa
bệnh hay chuyển di tư tưởng,
tiếp nhận ý nghĩ của người
khác v.v... Nga từ lâu đã thành
lập viện nghiên cứu óc não.
Viện này quy tụ nhiều nhà
khoa học lỗi lạc. Họ hy vọng
việc nghiên cứu bộ óc sẽ khám
phá ra những điều mới lạ,
đồng thời mở được cả cánh
cửa Huyền môn để vào thế
giới mà từ lâu loài người
thường cho là thế giới vô
cùng huyền bí. Bề ngoài thế
giới chỉ biết được mục đích
của việc nghiên cứu này ở
Moscow là tìm hiểu sự liên hệ
giữa bộ óc và thiên tài, năng
khiếu của một con người như
thế nào. Nhưng tàng ẩn bên
trong là những nghiên cứu có
liên quan đến các sự kiện
vượt ra ảnh hưởng của
trường vật lý của quả đất mà
con người đang sống. Những
sự kiện mà từ lâu con người
bán tín bán nghi như ma quỷ,
sự xuất hồn hay nhập hồn, sự
thông linh, suy đoán tương lai,
sự đọc, hiểu tư tưởng kẻ khác
hay nghe, thấy từ khoảng
cách rất xa theo kiểu thiên lý
nhĩ, thiên lý nhãn... Hoa Kỳ
cũng không bỏ qua lãnh vực
nghiên cứu vừa kể. Viện
nghiên cứu óc não của họ
được trang bị đầy đủ các loại
máy móc tối tân với vô số các
nhà bác học lỗi lạc tập trung
nghiên cứu. Nơi đây các bộ
não được lưu trữ không
những là của các danh nhân
thế giới sau khi qua đời mà
còn là của những con người
bình thường nhưng có khả
năng kỳ diệu về thấu thị, về
chuyển di tư tưởng, chữa
bệnh qua khoảng cách, nhìn
xuyên suốt không gian v.v... Ví
dụ như bộ não của Edgar
Cayce người Hoa Kỳ, ông chỉ là
một người bình thường như
bao người khác nhưng vào
năm 35 tuổi ông tự nhiên
thấy rõ được quá khứ xa xăm
của những người bị bệnh ngồi
hay nằm trước mặt ông và khi
đó ông đi vào giấc ngủ thôi
miên.
Năm 1945, ông Cayce biết
trước mình sắp qua đời nên
ngỏ ý tặng viện nghiên cứu óc
não bộ óc của mình để các nhà
khoa học tại đây nghiên cứu.
Các khám phá từ lâu cho biết
bán cầu não phía bên trái là cơ
sở quan trọng của tư tưởng
trừu tượng, nơi đây có thể là
phần quan trọng cho các hoạt
động thuộc lãnh vực tâm linh
huyền bí. Mới đây, các nhà
khoa học còn tìm thấy một cơ
phận kỳ diệu khác có liên quan
đến hiện tượng tâm linh: đó là
tuyến tùng quả (Pineal gland)
nằm trong hốc não. Một khám
phá mà Nga trong năm 1995
đã tập trung nghiên cứu là
năng lượng bộ não người
chết còn khả năng phát điện
một thời gian dài. Theo các
nghiên cứu về óc não thì sau
khi con người chết đi, dù họ
đã sống được 100 năm, năng
lượng của bộ não của họ cũng
chỉ mới sử dụng một hay hai
phần mười mà thôi. Năng
lượng còn lại ấy sẽ tiếp tục lan
tỏa, truyền đi trong không
gian. Chính vì thế mà có hiện
tượng mã phát mà các cụ xưa
thường nói. Theo nghiên cứu
của viện nghiên cứu Nga và
Pháp thì hiện tượng gọi là mã
phát chính là sự cộng hưởng
giữa năng lượng hay điện não
của bộ não người đã chết với
năng lượng hay điện não
người sống qua hiện tượng di
truyền liên kết.
Nhiều người bình thường như
bao người khác, họ không
phải là các đại sư đã hằng bao
năm khổ hạnh tu luyện trong
các hang động, rừng sâu núi
thẳm hay các phù thủy lừng
danh nhưng đôi khi lại có
năng lực kỳ diệu phát sinh từ
bộ não.
Tâm linh huyền bí nơi xứ đỉnh
trời
Từ xưa đến nay có nhiều nhà
nghiên cứu chuyên nghiệp và
tài tử về hiện tượng siêu hình,
đã đi sâu vào những nơi mà
họ cho là trung tâm của các sự
kiện huyền bí, để chứng kiến
tận mắt những hiện tượng lạ
lùng không thể giải thích
được. Thời ấy các nhà khoa
học và dân tộc nổi tiếng như
James Frazer, R. Muller, William
Halse Ricers, Ions Veronica,
Mbiti John, Wentz W. E,
Osborne Harold... đặc biệt là
một người đàn bà, một nữ
văn sỉ tên là Alexandra David
Neel đã đơn phương độc mã
trèo đèo vượt núi trong tuyết
lạnh để vào xứ sở của đỉnh
trời là xứ Tây Tạng không
ngoài mục đích là tìm hiểu tận
chỗ những gì thuộc lãnh vực
siêu linh huyền bí. Nhờ đó mà
thế giới Tây phương mới biết
được những cuộc sống lạ lùng
của các vị Lạt Ma Tây Tạng,
nhất là biết về những năng
lực tâm linh kỳ bí của những
vị sư sống trong hang động,
nơi mà Trời và Đất gần như
hòa nhau thành một.
Điểm đặc biệt đáng nhắc đến
là nơi đây các vị sư đều có khả
năng cao về nhận thức, bộ
não luôn luôn được trong
sáng nên họ có thể hiểu nhau
qua không gian hơn là biểu lộ
bằng lời nói hay hành động.
Nhờ khả năng đọc được tư
tưởng người khác mà nhiều vị
Lạt Ma Tây Tạng biết trước
được những gì mà người khác
đang dự tính trong đầu. Ngoài
ra những vị này còn có khả
năng kỳ diệu là phân tích vầng
màu sắc tỏa ra từ đầu bất cứ
ai để từ đó biết được ý
tưởng tốt hay xấu mà người
đó đang dự định. Năng lực
của con mắt thứ ba: Thần
nhãn hay Huệ nhã.
Trở lại vấn đề khả năng thông
hiểu ý tưởng kẻ khác cũng
như thấy rõ và phân biệt
vầng màu mà các vị Lạt Ma Tây
Tạng có được thì đó lại là sự
kiện có vẻ bình thường đối
với người dân Tây Tạng. Lý do
dễ hiểu là từ tấm bé, họ đã
được cha mẹ kể cho nghe
chuyện cổ tích về người Tây
Tạng thời cổ xưa, theo chuyện
cổ này thì thời xưa ấy, người
Tây Tạng ai cũng có một nhãn
lực đặc biệt, nhãn lực này
không phải từ đôi mắt thông
thường của con người mà là
từ một con mắt thứ ba này
mà người xưa gọi là Thần
nhãn hay nói theo kinh điển là
Huệ nhãn. Về sau, vì con người
bị lôi kéo dần vào đường vật
chất, ích kỷ, tham lam, sân
hận, mê mờ nên trí óc không
còn trong sạch, sáng suốt. Cuối
cùng như tấm gương bị bụi
mờ che kín, con mắt thứ ba
trở thành u tối không còn sử
dụng được nữa. Các nhà
nghiên cứu về Huệ nhãn đã
bắt gặp trong giới động vật
hình ảnh trung thực nhất về
con mắt thứ ba một cách rõ
rệt không chối cãi. Tuy nhiên
câu hỏi tại sao lại có sự hiện
hữu và công dụng thực tế thì
lại còn lắm mơ hồ. Đặc biệt lạ
lùng là ngay trong giới động
vật có xương sống cấp dưới
thì lại thấy hiện một cấu tạo
giống như cấu tạo mắt bình
thường, nghĩa là cũng có dây
thần kinh, thủy tinh thể và
võng mạc... Ngay cả loài cá,
lưỡng thê, bò sát, chim, cả
động vật có vú kể cả con
người cũng đều có dấu tích
con mắt thứ ba. Khi khảo sát
bộ xương của loài khủng long
thời tiền sử, các nhà cổ sinh
vật học cũng chú ý tới một
chỗ lõm nơi phần sọ của loài
bò sát khổng lồ này và đã
đoán nơi đây là vị trí của một
cơ quan thị giác hay nói theo
suy tưởng của sự kiện đang
bàn là "con mắt thứ ba". Công
dụng của con mắt này có lẽ để
giúp các loài động vật thời cổ
không những thấy mà còn
biết thêm hay cảm nhận trước
được tình trạng chung quanh
như mưa, gió nhất là các vật
thể nằm khuất ở vị trí phía
trên đầu. Những khám phá
mới đây nhất (vào năm 1996)
từ một số nhà khoa học đã
cho biết là trong não người có
một cái tuyến tuy rất nhỏ, chỉ
bằng hạt đậu xanh nhưng
nhiệm vụ của tuyến này rất
kỳ diệu, chỉ tiết ra loại nhân
hóa tố đặc biệt với một lượng
rất nhỏ trong trường hợp con
người đang chú tâm cầu
nguyện với tất cả thành tâm
hay vào các giai đoạn con
người ở tình trạng nguy biến,
thập tử nhất sinh. Cái tuyến lạ
lùng đó là tuyến Tùng quả
(Pineal gland). Khi phân hóa tố
của tuyến đi vào máu thì cơ
thể sẽ có những phản ứng kỳ
diệu bất ngờ mà lúc bình
thường không có được. Các
nhà sinh vật học còn khám
phá ra rằng tuyến Pineal gland
còn có liên quan tới bộ phận
mà người Tây Tạng gọi là con
mắt thứ ba.
Chỉ những ai chịu vứt bỏ lòng
tham luyến sân si mê mờ,
quyết tâm giữ lòng trong sạch
và tu trì mới có được Huệ
nhãn. Chính phần lớn các vị
Đại sư Tây Tạng, những người
ẩn cư nơi vùng núi cao tuyết
giá hay trong các Đạo viện
thâm nghiêm là có thể có năng
lượng thượng thừa ấy mà
thôi. Tuy nhiên theo các vị đại
sư thì không phải tất cả các vị
chân tu Tây Tạng đều có Thần
nhãn hay Huệ nhãn như ta
tưởng, vì muốn có được Thần
nhãn thì người đó phải hội đủ
các điểm cần yếu như đã nói
trên mà còn phải có Thần lực
đặc biệt kết hợp với các pháp
môn tu luyện cao siêu mới
được. Phép tu luyện cao siêu
đó có mục đích là để khai mở
Huệ nhãn. Một khi đã có Huệ
nhãn rồi thì dù ngồi tĩnh tọa
trong viện, nơi núi cao hay
trong rừng sâu vẫn có thể
thấy được những gì xảy ra ở
khoảng cách rất xa, hay
chuyển di tư tưởng đến một
nơi nào đó cho ai.
Tại Tây Tạng, nơi nhiều Đạo
viện thường có những buổi
thực tập về phép chuyển di tư
tưởng giữa các hàng đệ tử
trong giai đoạn tu luyện các
phép thần thông. Phương
cách thực tập rất khoa học, lúc
đầu hai người đệ tử ngồi cạnh
nhau để chuyển tư tưởng cho
nhau. Khi bắt được tư tưởng
của nhau rồi thì khoảng cách
tĩnh tạo giữa hai người này sẽ
ở vị trí xa hơn. Cứ thế mà về
lâu về dài họ có thể đạt tới
khả năng truyền tư tưởng cho
nhau qua khoảng cách rất xa:
hoặc từ đạo viện này đến đạo
viện khác, từ hang động này
đến hang động khác... Theo bà
Alexandra David Neel thì nơi
dãy Hy Mã Lạp Sơn tuyết phủ
im lìm hoang vắng nhưng lại là
nơi các nguồn tư tưởng của
các vị ẩn tu giăng bủa khắp
nơi.