Nghệ rất tốt cho sản
phụ.
Phụ nữ có thai bị ra máu, đau
bụng (dọa sẩy) có thể lấy
nghệ vàng, đương quy, thục
địa, ngải cứu, lộc giác giao
(sừng hươu) mỗi vị 1 lạng,
sao khô vàng, tán nhỏ, mỗi
lần uống 4 đồng cân (khoảng
40 g). Dùng gừng tươi 3 lát,
táo 3 quả, sắc với nước,
uống trước bữa ăn khi thuốc
còn ấm.
Củ nghệ vàng còn có các tên gọi
như khương hoàng, vị cay đắng,
tính bình, có tác dụng hành khí,
hoạt huyết, làm tan máu, tan ứ
và giảm đau. Uất kim (củ con
của cây nghệ) vị cay ngọt, tính
mát, làm mát máu, an thần, tan
máu ứ, giảm đau.
Sách Đông y bảo giám cho rằng
khương hoàng có tác dụng phá
huyết, hành khí, thông kinh, chỉ
thống (giảm đau), chủ trị bụng
chướng đầy, cánh tay đau, bế
kinh, sau đẻ đau bụng do ứ trệ,
vấp ngã, chấn thương, ung
thũng... Nhật hoa tử bản thảo
cho khương hoàng có tác dụng
trị huyết cục, nhọt, sưng, thông
kinh nguyệt, vấp ngã máu ứ,
tiêu sưng độc, tiêu cơm...
Một số phương thuốc dùng
nghệ trong Nam dược thần
hiệu :
- Phòng và chữa các bệnh sau
đẻ: Dùng 1 củ nghệ nướng, nhai
ăn, uống với rượu hay đồng
tiện (nước tiểu trẻ em khỏe
mạnh).
- Chữa lên cơn hen, đờm kéo lên
tắc nghẹt cổ, khó thở: Dùng
nghệ 1 lạng, giã nát, hòa với
đồng tiện, vắt lấy nước cốt
uống.
- Chữa trẻ em đái ra máu hay
bệnh lậu đái rắt: Dùng nghệ và
hành sắc uống.
- Trị chứng điên cuồng, tức bực
lo sợ: Nghệ khô 250 g, phèn
chua 100 g, tán nhỏ, viên với hồ
bằng hạt đậu, uống mỗi lần 50
viên với nước chín (có thể uống
mỗi lần 4-8 g), ngày uống 2 lần.
- Chữa đau trong lỗ tai: Mài nghệ
rỏ vào.
- Chữa trị lở, lòi dom: Mài nghệ
bôi vào.